Trường THPT Số 1 Mộ Đức
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trường THPT Số 1 Mộ Đức

Diễn đàn trường THPT số 1 Mộ Đức
 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share | 
 

 Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
duongvidic.
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
duongvidic.

Tổng số bài gửi : 709
Reputation : 3
01/11/1992
Join date : 15/04/2011
Age : 31
Đến từ : 12A5(2007-2010
MD1coin : 896

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 12:21 am

chắc nhiều bạn đã xem phim kiếm hiệp khá nhiều, và cũng biết tên không ít các nhận vật trong đó như Quách Tĩnh, Kiều Phong, Dương Quá, Đoàn Dự....
vậy sự có mặt của các Bang Phái Trung Quốc hình thành như thế nào, mợi người cũng tìm hiểu và giao lưu.

Cái Bang

Cái Bang, theo truyện võ hiệp thì nó là một hội tập hợp những người không thích làm việc, chỉ thích xin thức ăn thừa của người ta. Truyện Kim Dung mô tả Cái Bang là một hội rất lớn của những người ăn mày yêu nước và chuyên làm việc nghĩa.
Trong truyện Kim Dung
Trong tiểu thuyết của Kim Dung, Cái Bang là bang đứng đầu (đệ nhất bang), xưng hùng cùng với Thiếu Lâm (đệ nhất phái) và Minh Giáo (đệ nhất giáo-chỉ xuất hiện trong Ỷ Thiên Đồ Long ký). Nhiều nhân vật anh hùng trong truyện Kim Dung từng ở trong bang này như Hồng Thất Công, Kiều Phong, Hoàng Dung (vị bang chủ nữ đầu tiên, về sau có Sử Hồng Thạch)...
Lịch sử Cái Bang có thể nói là từ rất lâu đời, danh xưng "Thiên Hạ Đệ Nhất Bang" không phải tự nhiên mà có. Nhờ tinh thần quật cường và nhân số đông đảo, phái này luôn chiếm một vị trí đáng kể trong võ lâm Trung Nguyên. Danh tiếng trên Giang hồ của Cái Bang lừng lẫy hàng trăm năm, nhân tài Ngọa hổ tàng long, thời nào cũng có.
Trong bốn bể Đông Tây Nam Bắc, nơi nào có ăn xin, nơi đó có Cái Bang. Những đệ tử trong bang thương yêu giúp đỡ nhau, chia sẻ mọi thứ, tạo nên một khối thống nhất luôn theo phò Chính nghĩa. Cái Bang tuyệt học chính là "Giáng Long thập bát chưởng" và "Đả cẩu bổng pháp".
Bang chủ
Uông Kiếm Thông trong Thiên long bát bộ: bang chủ thứ 2
Kiều Phong trong Thiên long bát bộ: bang chủ thứ 3
Du Thản Chi: bang chủ thứ 4
Hồng Thất Công trong Anh hùng xạ điêu: bang chủ thứ 18
Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp: bang chủ thứ 19
Lỗ Hữu Cước: bang chủ thứ 20
Gia Luật Tề: bang chủ thứ 21
Sử Hỏa Long: bang chủ thứ 24
Sử Hồng Thạch: bang chủ thứ 25
Giải Phong (trong Tiếu ngạo giang hồ), không rõ đời nào.

giáng long thập bát chưởng:
Hàng long thập bát chưởng (Mười tám thế chưởng pháp hàng phục được rồng) là tên một loại tuyệt kỷ võ thuật xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, nguyên có tên là Giáng long thập bát chưởng và sau đã được thay đổi. Được mô tả trong loạt truyện kiếm hiệp gồm Thiên Long bát bộ và Xạ điêu tam bộ khúc (Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ thiên Đồ long ký), Hàng long thập bát chưởng là 1 trong 2 tuyệt kỷ của Cái Bang bên cạnh "Đả cẩu bổng pháp".
Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, còn Hàng long thập bát chưởng thì chỉ có những đệ tử cái bang từ hàng 9 túi trở lên mới được truyền dạy và mỗi người chỉ được dạy một vài chiêu chứ không được học hết cả pho chưởng pháp, ngoại trừ các đồ đệ truyền nhân của bang chủ.
Chiêu thức của bộ chưởng pháp này bao gồm:
Phi long tại thiên hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
Kiến long tại điền lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.
Hồng Tiệm vu lực lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
Tiềm long vật dụng lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.
Kháng long hữu hối lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "Cản rồng ắt sẽ hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận.
Lợi thiệp đại xuyên có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
Đột như kỳ lai lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.
Chấn kinh bách lý lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
Hoặc dược ư uyên hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
Song Long Xuất Thủy Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
Dực Long tại uyên
Thời thừa lục long
Bái Nhiên Hữu Vũ Thanh phong từ lai, bái nhiên hữu vũ
Tổn tắc hữu phu
Long chiến vu dã lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi hoang dã". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.
Lử sương băng chí Sơn vũ dục lai, lữ sương băng chí, tên đầy đủ là "lữ sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.
Đê dương xúc phiên
Thần long bãi vĩ Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câutrên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ"
Đả cầu bổng pháp là một trong những tuyệt chiêu trấn phái của Cái Bang (dùng côn). Song hành cùng đó là "Hàng long thập bát chưởng". Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, là một loại Côn pháp chí cao. Từ lâu côn pháp này đã nổi danh nhưng song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang, thì mới thật sự uy trấn giang hồ. Và đến đời Hoàng Dung - con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư thì được biết đến rộng rãi. Bộ chưởng pháp này dùng nhu thắng cương bao đời, nên Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà nổi danh giang hồ những cao thủ về bộ Côn pháp này có thể kể đến như: Hồng Thất Công, Hoàng Dung, Tống Nguyên Ân (trưởng lão đời thứ 12 của Cái Bang)...
[sửa]Chiêu thức

Đả Cẩu Bổng Pháp có tổng cộng 36 chiêu, mỗi chiêu có nhiều thức biến hóa khác nhau tạo thành vô số chiêu thức tinh diệu. Đả Cẩu Bổng Pháp được thi triển theo đường lối "Tứ lạng bạt thiên cân" (Bốn lạng bạt ngàn cân), võ công được áp dụng theo 8 chữ khẩu quyết: buộc, đập, trói, đâm, khều, dẫn, khoá, xoay.
Nhà văn Kim Dung có nêu một số chiêu thức của Đả Cẩu Bổng Pháp:
Ngao Khẩu Đoạt Trượng (Cướp gậy từ tay địch nhân)
Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá)
Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập)
Bổng Đả Ác Cẩu (chữ Đập)
Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm)
Lục Phản Cẩu Điện ( chữ Đâm )
Bát Cẩu Triều Thiên ( chữ Khoá )
Thiên Hạ Vô Cẩu (chữ Xoay)
Về Đầu Trang Go down
xuanchinhCK884
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
xuanchinhCK884

Tổng số bài gửi : 720
Reputation : 18
20/08/1991
Join date : 22/12/2010
Age : 32
Đến từ : 12A5 k06-09
MD1coin : 819

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 1:30 am

ANH EM NÀO CÓ NIỀM ĐAM MÊ VÕ THUẬT THÌ CÙNG NHAU VÀO ĐÂY BÀN LUẬN NHA, ĐÂY LÀ LINK SHARE 1 SỐ KIẾN THỨC VỀ VÕ THUẬT TÔI SƯU TẦM ĐƯỢC, ANH EM DOW VỀ RÙI CÙNG NHAU THAM KHẢO NHA
http://www.mediafire.com/?yhhgmmuzmnj
http://www.mediafire.com/?m2jznytyzq4

http://www.mediafire.com/?h3vy817jyqmbz2c
http://www.mediafire.com/?j1mj9hryila
CÒN NHÌU NHÌU, MỖI NGÀY UP MỖI ÍT NHA
Về Đầu Trang Go down
toanlkau
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
toanlkau

Tổng số bài gửi : 150
Reputation : 0
14/01/1992
Join date : 21/04/2011
Age : 32
Đến từ : 12a7(2007-2010)
MD1coin : 178

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 8:50 am

hi chào các bạn mình là hs cũ của md1,cho mình làm wen nha
Về Đầu Trang Go down
toanlkau
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
toanlkau

Tổng số bài gửi : 150
Reputation : 0
14/01/1992
Join date : 21/04/2011
Age : 32
Đến từ : 12a7(2007-2010)
MD1coin : 178

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 8:53 am

mình là fan ruột của kim dung nên khi thấy ban đuongvidic viết về chủ đề này mình rất hào hứng,hình như mình nhớ khi Hồng thất dạy Quách Tĩnh có nói đến chiêu "kháng long hữu hối" trong 18 chiêu nữa 73
Về Đầu Trang Go down
congchuaxuhoa_972000
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
congchuaxuhoa_972000

Tổng số bài gửi : 790
Reputation : 5
19/05/1992
Join date : 14/12/2010
Age : 31
Đến từ : 12A7 (2007-2010)
MD1coin : 843

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 9:36 am

sao you ko giới thiệu về bản thân để mọi người trên diễn đàn cùng biết về you nhỉ??? :hi:
Về Đầu Trang Go down
congchuaxuhoa_972000
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
congchuaxuhoa_972000

Tổng số bài gửi : 790
Reputation : 5
19/05/1992
Join date : 14/12/2010
Age : 31
Đến từ : 12A7 (2007-2010)
MD1coin : 843

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 9:41 am

toanlkau đã viết:
mình là fan ruột của kim dung nên khi thấy ban đuongvidic viết về chủ đề này mình rất hào hứng,hình như mình nhớ khi Hồng thất dạy Quách Tĩnh có nói đến chiêu "kháng long hữu hối" trong 18 chiêu nữa 73
a7 mà tên chi vậy you????????
Đức Tuyền nè :hi: :hi: :hi:
Về Đầu Trang Go down
duongvidic.
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
duongvidic.

Tổng số bài gửi : 709
Reputation : 3
01/11/1992
Join date : 15/04/2011
Age : 31
Đến từ : 12A5(2007-2010
MD1coin : 896

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 6:09 pm

toanlkau đã viết:
mình là fan ruột của kim dung nên khi thấy ban đuongvidic viết về chủ đề này mình rất hào hứng,hình như mình nhớ khi Hồng thất dạy Quách Tĩnh có nói đến chiêu "kháng long hữu hối" trong 18 chiêu nữa 73

bạ xem thiên long bát bộ, lúc Kiều Phong lên núi thiếu thất, đã dùng chiêu này cứu A Tử khỏi tay Đinh Xuân Thu
Về Đầu Trang Go down
duongvidic.
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
duongvidic.

Tổng số bài gửi : 709
Reputation : 3
01/11/1992
Join date : 15/04/2011
Age : 31
Đến từ : 12A5(2007-2010
MD1coin : 896

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 6:48 pm

Thiếu Lâm Phái:
Người Trung Hoa thường phân loại các môn võ của họ thành hai loại với tên gọi khác nhau. Môn võ vật thì gọi là Giốc Để, còn võ quyền cước (đánh đá chân tay) gọi là Thủ Bác, mà bây giờ chúng ta gọi là quyền thuật (boxing). Sau này người Trung Hoa gọi các môn võ chân tay (hay quyền thuật) của họ là Kỹ kích hay Kỹ pháp.[1]
Tên khác của Thiếu Lâm Quyền: Thiếu Lâm công phu. Người Quảng Đông thì lại gọi các môn võ thuật có nguồn gốc từ Thiếu Lâm là Kungfu hay Gongfu (phiên âm Hán-Việt: Công Phu) và mang nó đi truyền bá khắp bên ngoài Trung Hoa Đại Lục nên người phương Tây gọi võ Trung Hoa là Kungfu, và các môn quyền thuật (boxing) (tiếng Nhật đọc là Kempo hay Kenpo) và công phu xuất phát từ chùa Thiếu Lâm thì gọi là Thiếu Lâm công phu (Shaolin là phiên âm latinh từ tiếng phổ thông, còn tiếng Quảng Đông đọc là "Sỉu Lầm" - viết là Silum) hoặc là Thiếu Lâm võ thuật. Trong khi tiếng Nhật thì cũng có một cách đọc na ná âm tiết là Shorin (Shaolin) và Ji (Sì). Do vậy, môn Karate (Không Thủ Đạo) ở Nhật còn có một tên gọi khác nữa là Shorin Ji Kempo nghĩa là Quyền Pháp Thiếu Lâm tự của Nhật Bản (xem mục Liên kết ngoài-Tham khảo phía dưới bài này).
Năm 1945, nước Nhật bại trận sau thế chiến thứ hai và trở nên kiệt quệ hoàn toàn. Kaiso (So Doshin) hiểu rõ thế nào là cảm giác bị đánh bại và đó là một phần lý do khiến ông sáng lập ra Shorinji Kempo. Kaiso (So Doshin) đã phát triển các kỹ thuật của Thiếu Lâm tự Trung Quốc và tập hợp lại thành hệ thống kỹ thuật Thiếu Lâm tự Nhật Bản.
Ông (Kaiso (So Doshin)) đã từng nói: "Tôi đã tận mắt chứng kiến thực trạng chính trị quốc tiếm khi mà sức mạnh dường như là công lý duy nhất tồn tại, những mối quan tâm quốc gia xâm chiếm cả tư tưởng, tôn giáo và đạo đức..." "Cách nhìn của tôi với thế giới thay đổi. Tôi hướng tới một mục tiêu cho cách sống mới của mình: Con người. Mọi thứ đều phụ thuộc vào giá trị của con người."


Cổng chính của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc).
Khi nói chùa Thiếu Lâm mà công chúng xưa nay thường biết đến chính là chùa Thiếu Lâm ở tại dãy núi Tung Sơn (huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc)) là thủy tổ của các môn phái võ Trung Hoa.
Còn các võ phái bên ngoài Trung Hoa Đại Lục trong vùng Đông Á (bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, ...) thì lại có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm và Bắc Thiếu Lâm.
Vị sư trưởng (tục gọi là Phương Trượng) hiện nay (2007) trụ trì tại chùa Thiếu Lâm (Đăng Phong, Hà Nam) là vị hòa thượng pháp danh Thích Vĩnh Tín (sinh năm 1965).
Sau khi vị hòa thượng này lên quản nhiệm ngôi chùa đã cho thành lập Công ty Thiếu Lâm tự và đăng ký bản quyền thương hiệu cho võ công Thiếu Lâm tại Trung Hoa và tại Cơ Quan Văn Hóa (của) Liên Hiệp Quốc (UNESCO) nhằm tránh nạn "ăn cắp bản quyền sáng chế" và cũng để hạn chế những ngụy phái dám giả mạo xưng danh là môn đồ của Thiếu Lâm tự làm điều càn rỡ phương hại đến uy danh và văn hóa Thiếu Lâm tự, mà nạn phổ biến nhất là việc sáng tác bừa bãi các bài quyền và các kỹ thuật công phu không đúng với tông pháp nguyên ủy của võ công Thiếu Lâm. Lịch sử võ công Thiếu Lâm cũng đã là minh chứng cho thấy sự mâu thuẫn về đường lối của Nam Thiếu Lâm và Bắc Thiếu Lâm với Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) và cuối cùng Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) cũng phải thừa nhận vị trí của Bắc Thiếu Lâm (Sơn Đông, Hà Bắc (Trung Quốc)) và Nam Thiếu Lâm (Toàn Châu, Phúc Kiến) trong một hệ thống Thiếu Lâm quyền.
Hơn nữa, vị phương trượng này - Thích Vĩnh Tín - cũng muốn chấn hưng lại danh tiếng văn hóa Thiền Tông Thiếu Lâm tự là cái nôi của Thiền Tông thế giới cũng như khẳng định lại vị trí đặc biệt của Thiền trong võ công Thiếu Lâm từ nguyên thủy của nó, ông đã phát biểu trong lời tựa các ấn phẩm võ công do chính nhà chùa xuất bản hiện nay: "nhà chùa nhờ có võ công mà nổi tiếng, ngược lại võ công của Thiếu Lâm cũng nhờ chùa mà trở nên phát triển" cho nên tại chùa Thiếu Lâm và ở Trung Hoa xưa nay thường hay có câu truyền tụng "Thiền Quyền nhất thể" là như vậy.
Lịch sử chùa Thiếu Lâm
Chi tiết xem thêm bài Thiếu Lâm tự


Dãy núi Tung Sơn tỉnh Hà Nam (Trung Quốc), người Hoa tại Việt Nam thường phiên âm là Sùng Sơn.
Chùa Thiếu Lâm, theo như trong các tài liệu khảo sát bằng văn bản của Dương Huyễn Chi, trong "Lạc Dương Già-lam kí" (洛陽伽藍記; 547), và Lý Hiền (李賢), trong "Minh nhất thống chí (明一統志; 1461), cũng công nhận vị trí và thời đại của ngôi chùa như Đạo Tuyên trong "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645). Quyển "Gia Khánh trùng tu nhất thống chí" (嘉慶重修一統志; 1843) viết rằng ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, được xây dựng vào năm Thái Hòa (太和) thứ 20 nhà Bắc Ngụy (tức năm 497), là ngôi chùa Thiếu Lâm ở huyện Đăng Phong (Dangfeng 登封), tỉnh Hà Nam (Henan 河南) (có sách viết là Hồ Nam là không đúng vì tỉnh Hồ Nam rất xa về phía Nam tỉnh Hà Nam), Trung Quốc, cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Ngôi chùa bị hủy diệt và trùng tu vài lần, trở thành một trong những ngôi chùa xưa nhất của Trung Quốc.
Theo "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645) của Đạo Tuyên ngôi chùa này ban đầu được Hiếu Văn Đế (孝文帝)(471-499) triều Bắc Ngụy (386-534) xây dựng vào năm 497 ở phía bắc ngọn núi Thiếu Thất (Shaoshi 少室山), trong dãy Tung Sơn (Songshan 嵩山), huyện Đăng Phong (Dengfeng 登封), thuộc tỉnh Hà Nam (Henan 河南) về hướng Tây Bắc gần thành phố Trịnh Châu (Giản thể: 郑州, Phồn thể: 鄭州; Bính âm: Zhèngzhōu) (là một trong năm ngọn núi danh thắng của Trung Quốc là Hoa sơn, Thái sơn, Hằng sơn, Hành sơn và Tung sơn) cho nhà sư Bạt Đà (Bá Tuó 跋陀), đến Trung Hoa vào năm 464, người đã thuyết giảng Bộ kinh Phật giáo ở Trung Quốc trong vòng ba thập kỷ.


Phía sau chùa Thiếu LâmTung Sơn tỉnh Hà Nam (Trung Quốc).
Nhưng lịch sử chùa Thiếu Lâm chỉ bắt đầu được biết đến nhiều sau khi vị Phật tăng Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma (phiên âm tiếng Trung Quốc của tên Ấn Độ Puti Damo 菩 提 達 摩 , Bodhidharma) từ Ấn Độ (năm 518 Tây lịch) đến Trung Hoa truyền thụ giáo pháp Phật Giáo đồng thời sáng lập nên một giáo phái Phật giáo mới sau này phát triển khắp vùng Đông Nam Á, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản là giáo phái Thiền Tông Trung Hoa. Ở Nhật Bản, tinh thần của Thiền (Zen) đã thấm đẫm văn hóa truyền thống của người Nhật qua các nghi thức trà đạo và các môn võ sau này.
Sau khi triều kiến Lương Vũ Đế (463-549) (cũng thuộc triều Bắc Ngụy) ở Kim Lăng (Trung Quốc) bất thành, Bồ Đề Đạt Ma đã đến chùa Thiếu Lâm (năm 527) để truyền bá Phật pháp cho người Trung Hoa. Do đó Bồ Đề Đạt Ma cũng được coi như là ông tổ của Phật Giáo Thiền Tông.
Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm, sau này lại trở nên nổi tiếng ở Trung Hoa và các quốc gia lân cận bị ảnh hưởng bởi nền văn minh và văn hóa Trung Hoa không phải ở lĩnh vực tôn giáo - như là Sư tổ của cái nôi xuất xứ (tổ đình) của giáo phái Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, mà lại nổi tiếng là Ông tổ của võ thuật Trung Hoa
ịch sử sơ khai Quyền Pháp Thiếu Lâm
Tập tin:Bodhidharma.jpg
Bồ Đề Đạt Ma trong bức ảnh Cước đạp lô diệp quá giang, đạp ngọn cỏ lau vượt sông Dương Tử đến chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc), tác giả vẽ: họa sĩ Dong Yuang.
Theo truyền thuyết của Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, sau khi từ biệt Lương Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) trên một ngọn cỏ lau (cước đạp lô diệp quá giang) đi đến chùa Thiếu Lâm và trụ trì ở đó. Ngày nay ở Thiếu Lâm tự vẫn còn bức tượng "cước đạp lô diệp quá giang" miêu tả tích này. Tại ngôi chùa này, ông đã thực hành thiền định trong chín năm liền quay mặt vào vách núi (cửu niên diện bích).
Trong thời gian trụ trì và thuyết pháp, nhận thấy các tăng nhân trong chùa có thể lực rất yếu kém không thể chống chọi nổi với thời tiết và khí hậu khắc nghiệt của vùng núi rừng hiểm trở, ngài đã kết hợp các bài tập luyện thở Yoga và một số môn võ tay không của Ấn Độ gọi là Cửu Long sáng tạo nên một số bài tập để rèn luyện tăng cường sức khỏe phục vụ cho quá trình tu hành.
Các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma cho đến hiện nay vẫn chưa thể xác định được.
Tuy nhiên có một điểm cần lưu ý là các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma có kèm theo một số các thủ thuật xoa bóp và điểm huyệt gọi là Án Ma Pháp (Anma Faat 按摩法) giống như phương pháp châm cứu và bấm huyệt của Đông y học Trung Quốc và phương pháp massage của phương Tây ngày nay. Do vậy trong các bài quyền của hầu hết các hệ phái Thiếu Lâm sau này thường hay có những động tác vỗ chân vỗ tay nhằm kích hoạt (activate) lên các huyệt đạo để phát động nguồn Khí lực trong cơ thể đồng thời để tạo khí thế khi diễn tập với mục đích làm cường kiện thân thể.
Tập tin:ShaolinSongshanHeinanMonk.jpg
Một võ tăng Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam trong thế tấn Chảo Mã ở chiêu thức Mỹ Nhân Chiếu Kính (người đẹp soi gương), một chiêu thức đặc trưng trong bài Ngũ Lộ Mai Hoa quyền.
Các bài tập thở và xoa bóp huyệt đạo để đả thông khí huyết trong hệ kinh mạch của võ Thiếu Lâm có liên hệ mật thiết sau này với các phương pháp của trường phái triết học Trung Hoa cổ đại là phái Đạo Gia với Phép đạo dẫn mà nó chính là phương pháp luyện tập hơi thở và truyền dẫn nguồn năng lượng nội sinh (Inner Power) trong cơ thể được gọi là khí (tiếng Trung Hoa phát âm là Qi, tiếng Nhật là Ki cũng gần như nhau). Đó chính là phương pháp Khí công chỉ chuyên luyện nội khí, vận khí (dẫn khí), dụng khí hóa kình trong quyền thuật và Điểm Huyệt của võ Thiếu Lâm. Hai môn này hiện nay đang được các trường Đại học của Trung Quốc và Đài Loan (Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa của Trung Hoa Đại Lục, Đại học Đài Bắc của Đài Loan Dân Quốc) nghiên cứu (xem các tài liệu Khí Công Trung Hoa - nguyên tác Hoàng Vũ Thăng, Giám đốc Hiệp Hội Khí Công Việt Nam, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao - Hà Nội trong mục Sách Tham Khảo phía dưới bài này)
[sửa]La Hán Thập Bát Thủ và Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh
Theo các nhà khảo cứu võ thuật Trung Hoa (cũng chính là người Trung Hoa) thì các tài liệu đời sau đều gán công lao cho vị sư tổ này sáng tạo ra môn Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh (Marrow Cleasing and Muscle Change Classic) mà tục gọi tắt là Dịch Cân Kinh và La Hán Thập Bát Thủ (mười tám thế tay của phật La Hán). Song cho đến giờ vẫn chưa có tài liệu nào xác minh được nguồn gốc chân thật của hai phương pháp này là do Bồ Đề Đạt Ma truyền lại mà chỉ có tác phẩm Võ Thuật Tùng Thư của Quảng Từ Lão Ni xác nhận Bồ Đề Đạt Ma là nhân vật sáng tác Dịch Cân Kinh và Thập Bát La Hán Quyền (?) theo lời kể của võ sư Đoàn Tâm Ảnh (thuộc hệ phái Thiếu Lâm Côn Luân) kể lại cho học trò của ông là giáo sư Vũ Đức (cũng là môn đồ cao cấp của võ Karate) thuật lại, nhưng điều này cũng không có gì làm bằng chứng xác thực.
Chỉ có một điều duy nhất rõ ràng hiển nhiên rằng là La Hán Thập Bát Thủ (Shaolin 18 Arhat Form) chính là bài quyền hoàn chỉnh đầu tiên của Thiếu Lâm quyền được sáng tạo bởi các võ tăng Thiếu Lâm tự vào thời nhà Tùy (581-618).
Có một số ít các tài liệu của Trung Hoa sử dụng danh từ La Hán Thập Bát Chưởng hay La Hán Thập Bát Môn thay cho danh từ La Hán Thập Bát Thủ nhưng danh từ này không được thông dụng và phổ biến lắm.
Có người đời sau lại còn cố gắng tạo ra Thập Bát La Hán Quyền là của Thiếu Lâm quyền do chính Đạt Ma Sư Tổ sáng tạo ra.
Sau này trong truyền thuyết (lại cũng là truyền thuyết) được ghi lại (xem Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt - là học trò của võ sư Đoàn Tâm Ảnh và Nam Quyền Toàn Thư của quyền sư Trương Tuấn Mẫn trong mục Sách Tham Khảo ở bài Thiếu Lâm Hồng gia) thì nhà sư Giác Viễn (có tài liệu gọi là Giác Nguyên) đã phát triển La Hán Thập Bát Thủ (Shaolin 18 Arhat Form) thành Thất Thập Nhị Huyền Môn (bảy mươi hai công phu) (72 Secret Arts of Shaolin, 72 Fists of Shaolin) làm cơ sở nền tảng cho Thiếu Lâm quyền về sau. Từ bảy mươi hai thế quyền sau đó được phát triển lên đến 108, rồi 170, ...
[sửa]Ngũ Hình Quyền nguyên thủy Thiếu Lâm Tung Sơn
Tập tin:ShaolinSongshanViewInside.jpg
Võ tăng Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc).
Một thuyết nữa lại bổ sung vào thuyết trên cho rằng Giác Nguyên sau đó đã truyền lại bảy mươi hai thế quyền này cho Bạch Ngọc Phong, sau đó cũng là một tăng nhân của Thiếu Lâm tự. Bạch Ngọc Phong đã dựa vào các thế quyền này kết hợp với các bài tập Ngũ Cầm Hí là những bài tập khí công của Y Sư Hoa Đà thời Tam Quốc, và Bát Đoạn Cẩm mà khai triển thành Ngũ Hình Quyền sơ khai gồm Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc mà những đường quyền này đến nay cũng chẳng biết nguồn gốc ra sao nữa.
Cũng theo các tài liệu trên thì Giác Viễn và Bạch Ngọc Phong là hai nhân vật xuất hiện vào khoảng từ thế kỷ 14, 15 hay 16, 17 gì đó (tức là vào khoảng từ triều nhà Minh (1368-1644) và nhà Thanh (1644-1912) trở đi).
Tài liệu Thập Bát La Hán Quyền của Lạc Việt viết chi tiết rằng Bạch Ngọc Phong sáng tác Ngũ Hình Quyền vào thời nhà Nguyên nhưng lại dựa trên cơ sở nền tảng của La Hán Thập Bát Thủ do Giác Viễn một thiền sư của Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam sống vào cuối thời nhà Nguyên và đầu thời kỳ nhà Minh. Sau này trên một số tạp chí chuyên san võ thuật in trước và sau 1975 tại Sài Gòn võ sư Đoàn Tâm Ảnh có lên tiếng giải thích là mười tám đường quyền La Hán trên là do ông soạn ra và phổ biến vào những năm 1960 tại Sài Gòn. Trong khi đó tài liệu Quyền Phổ Thiếu Lâm được viết ngay tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn viết rất rõ rằng Giác Viễn Thượng Nhân sống vào thời kỳ nhà Tống là thời kỳ mà các bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm phát triển mạnh mẽ từ sau sự kiện Triệu Khuông Dẫn sáng tác bài Thái Tổ Trường Quyền (xem thêm Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư, trọn bộ 23 tập, nguyên tác Trung Văn Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, nhà xuất bản Thể Dục Thể Thao, Hà Nội).
Tuy nhiên, đa phần các tài liệu võ thuật do người Trung Hoa viết bằng tiếng Anh và tiếng Hoa cũng như các tài liệu của môn phái Karate ở Okinawa và Nhật Bản đều xác nhận như các tài liệu tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam rằng Giác Viễn Thượng Nhân và Bạch Ngọc Phong là người xuất hiện vào thời Tống mạt Nguyên Sơ (cuối thời nhà Tống và đầu thời nhà Nguyên).
Lại có một thuyết khác giải thích rằng vào thời nhà Nguyên (1271-1368), có Thiền sư Viên Trường Quang của chùa Thiếu Lâm vốn xuất thân là con nhà giàu ham mê võ nghệ đã gia nhập vào Thiếu Lâm tự. Sau khi học xong La Hán Thập Bát Môn và noi theo đó sáng tạo ra Thất Thập Nhị Quyền Pháp, ông ta (lúc này đã năm mươi tuổi) đã kết giao với Lý Thanh lúc đó ngoài sáu mươi tuổi cùng với Bạt Dự Phong (cũng đã ngoài năm mươi tuổi) cùng nhau nghiên cứu quyền pháp tại chùa Thiếu Lâm và đồng sáng tác thêm 170 động tác quyền thuật mô phỏng theo ngũ linh thú Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc mà tạo ra Ngũ Hình Quyền làm nền tảng cho võ thuật Thiếu Lâm sau này.
Trở lại câu chuyện chùa Thiếu Lâm.
Có một câu chuyện có thật mà đến nay dấu tích vẫn còn tại chùa là câu chuyện vị Thiền Tăng Đàm Tông dẫn đầu mười ba vị tăng nhân Thiếu Lâm Tự giúp Lý Thế Dân (sau này trở thành vua Đường Thái Tông) dẹp loạn Vương Thế Sung làm rạng ngời uy phong Thiếu Lâm quyền.
Câu chuyện này đã được dựng thành phim vào năm 1982 ở Trung Quốc do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai chính là học trò của Đàm Tông. Phim đã được công chiếu trên Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn).
[sửa]Kỹ năng môn phái Thiếu Lâm
Thiếu Lâm Phái được khai sáng bởi Đạt Ma Sư Tổ đến từ Tây Trúc được xem là đại diện cho “Võ Lâm Chính phái”.
Đệ tử của Thiếu Lâm là nam nhân, có hai loại: đệ tử xuất gia và đệ tử tục gia. Xuất gia đệ tử xuống tóc tu hành trong chùa, không can thiệp việc giang hồ, tục gia đệ tử thì tản lạc khắp nơi, hành hiệp trượng nghĩa có thể kết hôn hay làm bang chủ.
[sửa]Sự thật về lịch sử Thiếu Lâm Quyền
Từ các truyền thuyết trên đã có một vài mâu thuẫn chưa thống nhất về nguồn gốc Thiếu Lâm quyền.
Thứ nhất, câu chuyện về mười ba vị tăng nhân Thiếu Lâm tự cho thấy võ thuật Thiếu Lâm thời đó đã phát triển mạnh mẽ, nhất là từ thời nhà Đường (618-907) trở đi. Thậm chí tại cổng chùa còn để lại bút tích của Lý Thế Dân sau khi đăng quang hoàng đế Đường Triều Trung Hoa.
Tên của môn võ Karate của Nhật Bản được giải thích ngay trong các tài liệu của các võ sư Nhật Bản cũng ghi rõ rằng Kara có nghĩa là triều nhà Đường, và Karaté Do có nghĩa là môn võ tay không (không sử dụng bất kỳ loại binh khí nào) xuất hiện từ thời nhà Đường cho nên còn gọi là Không Thủ Đạo hay Đường Thủ Đạo.
Thứ hai, truyền thuyết về Thiếu Lâm quyền vẫn còn trong bóng tối của lịch sử vì hai nhân vật Giác Viễn và Bạch Ngọc Phong xuất hiện từ thời nhà Minh (1368-1644) và nhà Thanh (1644-1912) trở đi, và bởi vì lịch sử Thiếu Lâm quyền vào thời nhà Tống (960-1279) và nhà Nguyên Mông (1271-1368) kéo dài cả mấy trăm năm vẫn không có gì để được ghi nhận cả.
Thứ ba, truyền thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma là Sư tổ của võ Thiếu Lâm cũng phải cần xem xét lại vì còn có nhiều điểm tồn nghi.
Giả thiết về nhà sư Viên Trường Quang vừa kể trên từ Giáo Sư Vũ Đức ghi chép lại theo lời kể của võ sư Đoàn Tâm Ảnh cũng không có gì để làm bằng chứng xác thực từ nguồn tài liệu nào.
Ở đây gần ghi nhận thêm rằng, ở Phương Đông Cổ đại cũng như ở Phương Tây Cổ đại đều chú ý đến hai nguồn sử liệu. Một nguồn sử liệu viết chính xác các niên đại do chính các vị Sử Quan trong triều đình viết và có nguồn tài liệu tra khảo chính xác được gọi là Chính sử. Nguồn thứ hai là dạng sử liệu lưu truyền trong dân gian gọi là Dã sử, trong Dã sử lại bao gồm cả Huyền sử là một loại truyền thuyết dân gian thần thoại mang tính hư cấu (Imaginary) nhiều hơn là sự thật, kiểu như sự tích Thần Nữ Oa đội đá vá trời, ...
Vậy tại sao không có một tài liệu nào của các vị võ sư đề cập đến giai đoạn này (Tống - Nguyên). Trong khi viết về lịch sử Thiếu Lâm quyền, đa phần họ chỉ bám theo sự kiện phát tích các môn quyền mà không để ý đến các niên đại của các phát tích đó, thậm chí chỉ dựa hoàn toàn vào truyền thuyết lưu truyền trong dân gian.
[sửa]Triệu Khuông Dẫn và câu chuyện Hồng Quyền
Sau sự kiện Đường Thái Tông Lý Thế Dân hậu đãi chùa Thiếu Lâm và để lại bút tích tại bia đá ở cổng chùa cho đến nay vẫn còn, các vị hoàng đế Trung Hoa sau này cũng đều có cùng chung cảm hứng đến Thiếu Lâm tự để bày tỏ uy danh của triều đại mình cũng không thua kém uy danh của triều nhà Đường, một triều đại mà lịch sử ghi lại là phát triển rực rỡ nhất trong tất cả các triều đại phong kiến Trung Hoa không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội mà còn phát triển ở cả lĩnh vực văn hóa và học thuật tiêu biểu như các thể thơ Đường Luật và ca trù với các Thi sĩ nổi tiếng như Lý Thái Bạch (còn gọi là Lý Bạch), Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, nhất là sau sự kiện Đường tăng Trần Huyền Trang sang Thiên Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh hoằng dương Phật pháp tại vùng viễn Đông Trung Hoa xa xôi cách trở với xứ Phật.
Sau này các vị võ quan của triều đại nhà Đường (618-907) khi về hưu cũng thường đến chùa Thiếu Lâm để trao đổi võ thuật tạo nên một không khí giao lưu võ thuật mà nó trở thành truyền thống văn hóa và học thuật của nhà chùa cho đến các đời sau. Nhưng cho đến lúc này các bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm vẫn chưa được coi trọng và phát triển đúng tầm cỡ của nó như sau này vì lúc đó các phương pháp sử dụng binh khí vẫn còn thịnh hành và võ khí phòng thân của các vị tăng nhân trong chùa chính là cây côn mà chủ yếu là trường côn.
Chùa Thiếu Lâm lúc đó vẫn còn giữ nghiêm giới luật cho nên tuyệt đối cấm các tăng nhân sử dụng các loại võ khí bằng kim loại bén nhọn có thể gây sát thương và dẫn đến tử vong. Đó là điều dễ hiểu tại sao võ Thiếu Lâm lại tiến rất nhanh đến trình độ điêu luyện và tinh diệu về côn pháp.
Các loại binh khí (tục gọi là Thập Bát Ban Binh Khí Võ Nghệ ) chỉ được phát triển ở các dòng Nam Quyền và Bắc Quyền Thiếu Lâm sau này mà thôi.
Kỹ thuật sử dụng trường côn của Thiếu Lâm nổi tiếng đến nỗi Thích Kế Quang (1528-1588) - viên đại tướng của triều nhà Minh sau này có đề cập trong tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư của ông viết ra rằng côn pháp của Thiếu Lâm lúc đó vang danh khắp miền Nam Bắc Trung Hoa với danh hiệu Thiếu Lâm Đệ Nhất Côn Pháp.
Cũng cùng thời gian này có một viên đại tướng khác nữa của triều Minh là Du Đại Du ((1503-1579) là bạn thân với Thích Kế Quang cũng xuất bản tác phẩm Kiếm Kinh (thuật sử dụng Kiếm và Đao) vào năm 1565 có ghi lại thuật đánh trường côn của chùa Thiếu Lâm.
Trong suốt thời nhà Minh (1368 – 1644 T.L.), võ phái Thiếu Lâm tự ở vào thời hưng thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông" được biên soạn phổ biến, do Trình Xung Đẩu, tự Tông Du, người ở Tân Đô, sau khi học võ thuần thục với hai vị thiền sư Thiếu Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã nổi danh nhất về côn pháp, vào thời vua Minh Vạn Lịch (1573 – 1616 sau T.L.).
Hai vị đại tướng này của triều nhà Minh chính là những người đã lãnh đạo quan quân triều đình lúc đó đánh dẹp sự xâm lăng của các quân đoàn Hải Tặc Nhật Bản (còn gọi là giặc Nụy Khấu thường hay quấy nhiễu các bờ biển của Trung Hoa. Sự kiện lịch sử này có được ghi lại trên các bức tường trong chùa Thiếu Lâm Tung Sơn kể về sự hy sinh anh dũng của các tăng nhân Thiếu Lâm tự lần thứ hai xuất chinh giúp triều đình phong kiến Trung Hoa (xem trong các trang website tiếng Anh của Hồng Quyền của Lâm Thế Vinh).
Lịch sử cũng kể lại (chứ không phải là truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian) rằng thuở thiếu thời Triệu Khuông Dẫn lúc còn chưa lên làm hoàng đế Trung Hoa sau này mở ra triều đại nhà Tống, ông đã từng lên Thiếu Lâm tự để học tập võ thuật, và trở thành một quyền sư dạy võ thuật trong chùa Thiếu Lâm sau khi sáng tạo ra Tam Thập Lục Thế Trường Quyền (36 thế đánh của Thiếu Lâm Trường Quyền) mà sau này gọi là bài Thiếu Lâm Thái Tổ Trường Quyền (xem tài liệu Nam Quyền Toàn Thư đã dẫn như trên).
Sử liệu thời nhà Tống cũng ghi nhận lại là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn là người rất giỏi sử dụng côn pháp khi lâm trận và nghệ thuật sử dụng côn pháp của ông rất điêu luyện như các vị đại tướng của ông sử dụng các loại binh khí khác.
Tuy nhiên có một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian mà chùa Thiếu Lâm cũng công nhận là bài Thái Tổ Trường Quyền của Triệu Khuông Dẫn soạn ra do ông ta nằm mơ được Tiên Ông dạy cho 36 động tác căn bản của Hồng Quyền rồi tỉnh dậy theo đó mà soạn lại. Giả thuyết này không thể tin cậy được mà chỉ coi là câu chuyện kể nghe cho vui mà thôi. Chỉ có bài quyền này do chính Triệu Khuông Dẫn soạn ra còn lưu truyền đến ngày nay là thật sự cho biết thuở sơ khai Thiếu Lâm quyền có bộ mặt và dung nhan như thế nào để làm nguồn tra khảo vết tích của Thiếu Lâm quyền với đời sau. Ở mục Quyền Kinh trong tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư của Thích Kế Quang có nói rõ về bài quyền này do Triệu Khuông Dẫn là tác giả.
Cũng trong thời kỳ này (thời nhà Tống) ở chùa Thiếu Lâm Tung Sơn có một vài sự kiện đáng lưu ý là các nhà sư bắt đầu tổng hợp các phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay không, một thể loại chiến đấu đang được lưu truyền trong dân gian ở Trung Hoa lúc đó. Có thể kể ra một số bài quyền ra đời trong thời kỳ này là bài Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền và Khán Gia Quyền của hòa thượng Phúc Cư tại chùa Thiếu Lâm Tung Sơn, ... (xem Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư trọn bộ 23 tập - Nguyên tác Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao - Hà Nội).
Như vậy Hồng quyền của Thiếu Lâm đã xuất hiện ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam rất sớm trước khi Hồng quyền của Hồng Hy Quan thuộc dòng Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến của Chí Thiện Thiền Sư xuất hiện vào giữa triều đại nhà Thanh sau này ở Quảng Đông.
[sửa]Quyền thuật Trung Hoa và Thiếu Lâm Quyền
Theo các tài liệu Khảo Cổ Học của các nhà Khảo Cổ Học ở Trung Hoa cho biết rằng những hình khắc vẽ trên các di tích bằng xương là dấu vết cho thấy
phương thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền vẫn còn được áp dụng trong các đời vua nhà Thương (năm 1600 TCN-1027 TCN, nghĩa là trước Thiên Chúa giáng sinh).
Trong Hán Thư ở mục "Nghệ Văn Chí" có nói đến "Binh Kỹ Xảo", tổng cộng 13 thiên, ở thiên thứ 6 có ghi nhận về môn thủ Thủ Bác (võ đánh tay đá chân) mà ngày nay chúng ta gọi là quyền cước được liệt kê vào mục "Binh Kỹ Xảo" để áp dụng trong việc huấn luyện các phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay không cho binh sĩ. Trong mục "Vũ Đế Ký" có ghi chép lại rằng: "... Vào mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ ba (năm 113 B.C, trước Thiên Chúa), nhà vua chỉ thị tổ chức hội thi đấu Giốc Để (đấu vật cổ truyền)..." cũng như ở mục "Phương Kỷ Lược" có chép: "... Hoàng Đế có thuật Tạp Tử Bộ Dẫn, gồm có mười hai quyển, trong đó đề cập đến phương pháp đạo dẫn".
Như vậy có thể thấy rằng võ thuật Trung Hoa thời thượng cổ và cổ đại (trước thời nhà Tần (221 TCN - 206 TCN) trước Thiên Chúa giáng sinh) cho đến thời nhà Hán (206 TCN-220) đã xuất hiện các thể loại võ thuật bao gồm hai thể loại: Giốc Để (mà ngày nay ta gọi là đấu vật) và Thủ Bác (ngày nay ta gọi là quyền cước).
Nhưng đồng thời cũng phải nhận rằng nhờ có Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm mà các bộ môn quyền thuật của Trung Hoa được tích hợp và tinh tuyển lại theo những đặc trưng khu biệt tùy theo cá tính nổi trội của từng địa phương mà vẫn không đi ra khỏi lề lối và khuôn phép chung của Thiếu Lâm quyền.
Nếu theo những cứ liệu khảo sát trên như vậy thì cũng chưa có nguồn tài liệu nào xác minh rằng Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo ra Dịch Cân Kinh. chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam cũng chưa bao giờ công bố nguồn tài liệu nào của mình ngay tại chùa để xác minh sự kiện này là chính xác. Có nhiều tài liệu còn tìm cách chứng minh rằng Dịch Cân Kinh được chế tác vào thời nhà Minh hoặc nhà Thanh là khoảng thời gian mà Thiếu Lâm quyền đang trong thời kỳ phát triển hưng thịnh nhất so với các thời kỳ trước đó vì căn cứ vào thể loại văn phong và cú pháp (phép đặt câu và sử dụng ngôn từ) đã cho biết Dịch Cân Kinh không thể được sáng tác vào thời nhà Bắc Ngụy, nhà Tùy hay nhà Đường (xem bài Dịch Cân Kinh - Nguồn gốc, Phương Pháp và Ngụy Tạo của Bộ Giáo Dục Việt Nam 2007 phía dưới bài này trong mục Liên Kết Ngoài-Tham Khảo).
Các hệ phái của Thiếu Lâm Quyền

Trong Thiếu Lâm Quyền có 3 hệ thống quyền thuật biểu hiện theo những kỹ thuật đặc trưng:
Quyền Pháp Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam:
La Hán Thập Bát Thủ
La Hán Quyền
Tiểu La Hán Quyền
Đại La Hán Quyền
Tiểu Hồng Quyền
Đại Hồng Quyền
Thông Tý Quyền
Triều Dương Quyền
Thất Tinh Quyền
Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền
Liên Hoa Quyền
Pháo Chùy hay Pháp Trùy (Pháo Quyền)
Tâm Ý Bả
Tâm Ý Quyền
Ngũ Hợp Quyền
Khán Gia Quyền
Ngũ Hình Quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc)
Thái Tổ Trường Quyền
Kim Cương Quyền
... ...
Bắc Thiếu Lâm:
Mê Tung Quyền
Nhị Lang Quyền
Thông Bối Quyền
Phách Quải Quyền
Phiên Tử Quyền
Quan Đông Quyền
Tra Quyền hay Soa Quyền
Đàm Thoái Quyền hay Đàn Thoái Quyền
Bát Cực Quyền
Đường Lang Quyền Bắc Thiếu Lâm
Ưng Trảo Quyền
Pháo Quyền
Hình Ý Quyền hay Lục Hợp Quyền của Thiếu Lâm Vy Đà Môn
Hoa Quyền hay Hóa Quyền của vua Khang Hy nhà Thanh sáng tạo
Địa Đàng Quyền
Binh Bộ Quyền của các võ quan thời nhà Minh sáng tạo
...
Nam Thiếu Lâm:
Thiếu Lâm Hồng gia
Lưu Gia
Lý Gia
Mạc Gia
Thái Gia
Thiếu Lâm Bạch Mi
Thiếu Lâm Vịnh Xuân
Thiếu Lâm Phật Gia Quyền
Thiếu Lâm Chung Ngoại Châu Gia.
Thiếu Lâm Đường Lang Quyền Nam Phái
Thiếu Lâm Bạch Hạc Quyền
Thiếu Lâm Quý Châu Quyền
...
[sửa]Thiếu Lâm Quyền Tung Sơn Hà Nam
Thiếu Lâm quyền Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) là nơi xuất phát ra võ thuật Thiếu Lâm Nguyên Thủy tại Thiếu Lâm tự ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam.
Đặc trưng của hệ quyền thuật này là các thế tấn thấp và di chuyển rất nhanh và kín đáo (khép kín hai đầu gối), các chiêu thức thủ pháp thì gọn gàng, tiết kiệm động tác, có đủ đòn chân (cước pháp) và đòn tay (thủ pháp), thế quyền nhanh thoăn thoắt, công thủ linh hoạt biến hóa với kỹ thuật thủ pháp (đòn tay) chủ yếu là Liên Hoa Thủ (tay nở như hình hoa sen) và Cầm Nã Thủ (Tiểu Cầm Nã Thủ Pháp: Hầu Thủ và Đại Cầm Nã Thủ Pháp: Xà Hình Thủ Pháp). Do vậy ở Quyền thuật ở Thiếu Lâm tự Tung Sơn Hà Nam (Trung Quốc) không có sự phân biệt Nam Quyền Bắc Cước.
Thiếu Lâm Quyền thời Tống – Nguyên
Theo tài liệu “Quyền Phổ Thiếu Lâm” được viết tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Hà Nam thì Thiếu Lâm Quyền lúc sơ khai đã được phát triển bởi các võ tăng trong chùa từ lúc chùa mới xây thời nhà Bắc Ngụy vua Hiếu Văn Đế (xem tài liệu Thiếu Lâm Bách Khoa Toàn Thư, trọn bộ 23 tập, tập 1 Thiếu Lâm Các Bài Quyền Cơ Bản, Nguyên Tác Thiếu Thất Sơn Nhân, dịch giả Hồ Tiến Huân, Nhà Xuất Bản Thể Dục Thể Thao – Hà Nội ngày 12 tháng 11 năm 2002, nhà sách Hoa Niên - số 494 đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh - phát hành).
Các bài quyền trong thời kỳ sơ khai này có thể kể ra như Tâm Ý Quyền, Tâm Ý Bả, v.v … ban đầu rất đơn giản và đã được hoàn thiện ngay sau khi được sáng tác bởi các võ tăng Thiếu Lâm tự. Các bài quyền này được truyền dạy bảo mật trong chùa và không được phép lưu truyền ra ngoài, chỉ có các vị Thiền Tăng bế môn không xuất ngoại thuộc Đạt Ma Viện và các tu viện, thiền phòng trong chùa mới được truyền thụ để gia tăng thể lực phục vụ cho quá trình tu hành.
Đó là nguyên nhân làm cho Thiếu Lâm Quyền trở thành một thứ gì đó giống như là một bí thuật cao siêu trong một thời gian dài từ thời nhà Tùy (581–618) cho đến thời nhà Đường tạo nên một danh tiếng huyền ảo rằng đó là một “Vùng Thánh Địa của các bộ môn quyền thuật Trung Hoa” cứ như thể chùa Thiếu Lâm là một nơi duy nhất phát tích võ thuật Trung Hoa mà dấu ấn của nó ngày nay còn nằm trong các truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian ở Trung Quốc, thường hay được đưa vào các loại tiểu thuyết và phim ảnh võ hiệp Hồng Kông. Các truyền thuyết này lâu ngày trở thành một niềm tin giống y hệt như là niềm tin tôn giáo hay niềm tin đạo đức và chính trị.
Ngay cả hai viên đại tướng Thích Kế Quang (tác phẩm Kỷ Hiệu Tân Thư) và Du Đại Du (tác phẩm Kiếm Kinh) thời nhà Minh sau này cũng nghĩ rằng quyền pháp của Thiếu Lâm rất kém và chỉ có côn pháp mà thôi.
Lịch sử chùa Thiếu Lâm cũng ghi nhận rằng các triều đại của nhà nước phong kiến Trung Hoa cho phép chùa được phép xây dựng các đoàn Binh Tăng để bảo vệ chùa với lý do rằng chùa thường xuyên bị bọn lục lâm thảo khấu và nạn đạo tặc địa phương hoành hành chùa vì chùa được nhà nước cấp đất đai rất lớn và nhiều tài sản trong chùa được các vị hoàng đế Trung Hoa và các phật tử bốn phương quyên góp tặng cho rất nhiều.
Cho đến nay chưa có một ngôi chùa nào to lớn và có lịch sử đặc biệt lâu đời còn sót lại từ thời phong kiến cổ đại ở phương Đông như chùa Thiếu Lâm. Lịch sử Phật giáo cũng ghi nhận như vậy và nơi đây chính là Tổ đình của Giáo Phái Phật Giáo Thiền Tông bởi vì Phật Giáo và Đạo Giáo (một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại suy tôn Lão Tử làm sư tổ, chuyên luyện các bí thuật trường sinh bất lão như phép đạo dẫn (luyện hơi thở - hô hấp) và luyện kim đan) ở Trung Hoa không được các nhà nước phong kiến coi trọng lắm mặc dù không hạn chế nó và cũng do học thuyết của hai giáo phái này không phục vụ cho nền chính trị của giai cấp quí tộc phong kiến (Nobble class) như là học thuyết của Nho Giáo (Confucianism). Sự kiện Bồ Đề Đạt Ma triều kiến Lương Vũ Đế và học thuyết tư tưởng của trường phái triết học Nho Gia được làm hệ tư tưởng chính thống cho các nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở Trung Hoa và các nước lân cận trong khu vực xung quanh Trung Hoa mà chịu chi phối của nền văn hóa Hán Nho đã cho thấy điều đó.
Cũng theo tài liệu trên cho biết các bài quyền trên được sáng tác vào thời nhà Bắc Ngụy trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm trụ trì và thuyết pháp.
Như vậy truyền thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma sáng tác ra Dịch Cân Pháp Tẩy Tủy Kinh (tục gọi là Dịch Cân Kinh) và La Hán Thập Bát Thủ làm cơ sở nền tảng cho Thiếu Lâm Quyền đã bị chính chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn (Hà Nam) bác bỏ. Điều này rất hợp lý và phù hợp với lịch sử hình thành của ngôi chùa này vì chúng ta đã biết rằng các môn võ đánh đá chân tay mà ngày nay chúng ta gọi là quyền cước hay quyền thuật đã được lưu truyền trong dân gian ở Trung Hoa từ thời cổ đại trước khi chùa Thiếu Lâm được xây dựng và trước khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Hoa qua các tài liệu khảo cổ lưu trữ của các học giả Trung Hoa hiện nay.
Theo tài liệu quyền phổ trên thì rõ ràng các bài quyền của nhà chùa có trước cả Dịch Cân Kinh trong khi các tài liệu bên ngoài chùa ở Trung Hoa Đại Lục và bên ngoài Trung Hoa Đại Lục cứ thường cho rằng Dịch Cân Kinh là những động tác cơ sở nền tảng cho các chiêu thức quyền thuật của Thập Bát La Hán Quyền - là bài quyền đầu tiên thủy tổ cho các bộ môn quyền thuật Thiếu Lâm và tất cả các bộ môn quyền thuật Trung Hoa sau này (?).
Thậm chí người ta còn gán cho Bồ Đề Đạt Ma sáng tác ra Dịch Cân Kinh trên cơ sở kết hợp phương pháp luyện thở (hô hấp) của Yoga (một trường phái triết học Ấn Độ cổ đại) và môn võ của Ấn Độ chuyên sử dụng tay chân gọi là Cửu Long.
Sự lầm lẫn (hay là cố ý lầm lẫn) tai hại trên đã làm tiêu tốn không biết bao nhiêu công sức và bút mực của các học giả và các nhà khảo cứu khi tìm hiểu về văn hóa Trung Hoa qua các tài liệu chuyên khảo.
Như vậy có thể nói rằng võ thuật Trung Hoa được sáng tác ở trong dân gian từ thời Trung Hoa cổ đại trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm hoằng dương Phật pháp.
Sau khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa, thật sự mới bắt đầu có sự kết hợp giữa hai môn võ thuật truyền thống dân gian của Trung Hoa và Ấn Độ và đi đến một hệ thống qui chuẩn sau này gọi là Thiếu Lâm Quyền.
Tài liệu “Quyền Phổ Thiếu Lâm” cũng cho biết các bài Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, và Kim Cương Quyền, ... được sáng tác vào khoảng đầu thời nhà Tống cùng một khoảng thời gian với bài Tam Thập Lục Thế Trường Quyền do Triệu Khuông Dẫn sáng tác mà sau này được đổi tên thành Thái Tổ Trường Quyền.
Bài La Hán Thập Bát Thủ (cũng từ nguồn tài liệu trên), gồm 10 lộ sau này (tức là 10 bài quyền) làm thành một bộ quyền thuật hoàn chỉnh nhất trong nhiều bộ quyền thuật của nhà chùa, được sáng tác vào thời nhà Tùy ban đầu có 18 động tác tay (nghĩa là sau khi Bồ Đề Đạt Ma đến chùa Thiếu Lâm) bởi các võ tăng chính tông chùa Thiếu Lâm sáng tạo ra để giúp cho các vị sư tăng bế môn tọa thiền có thêm các phương pháp gia tăng sức khoẻ trên con đường tu đạo.
Đến thời nhà Đường bài quyền này được phát triển thành 36 động tác tay, vào cuối thời nhà Tống đầu thời nhà Nguyên, nhà sư Giác Viễn, Thu Nguyệt (pháp danh của Bạch Ngọc Phong), … đã phát triển lên đến 173 thế và sau đó Bạch Ngọc Phong (vào thời nhà Nguyên) dựa vào đó kết hợp với các động tác mô phỏng có tính tượng hình cao của năm con vật (tục gọi là Ngũ Linh Thú) gồm Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc sáng tạo nên Ngũ Hình Quyền. Bài quyền này sau này được xem như là Ngũ Hình Quyền Nguyên Thủy của Thiếu Lâm tự Tung Sơn (Hà Nam) làm cơ sở cho các bài Ngũ Hình Quyền của Nam Quyền Thiếu Lâm Toàn Châu Phúc Kiến và Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật (Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái) và Thiếu Lâm Vịnh Xuân (còn gọi là Vịnh Xuân Quyền) ở Quảng Đông vào thời Minh – Thanh sau này.
[sửa]Thiếu Lâm Quyền thời Minh - Thanh
Vào đầu thời Minh – Thanh, quyền thuật Thiếu Lâm đã phát triển rất mạnh mẽ cùng với sự hình thành của các võ phái khắp miền Nam - Bắc Trung Hoa như Võ Đang (Wu Tang Kungfu), Nga Mi (Emei Kungfu), Thiếu Lâm Côn Luân, Thiếu Lâm Không Động, v.v. …, cùng với các bộ môn quyền thuật mới của các môn đồ Bắc Thiếu Lâm vùng Sơn Đông, Hoa Bắc và Nam Thiếu Lâm ở Toàn Châu (Phúc Kiến), Quảng Đông, Hoa Nam sau khi tinh tuyển các môn quyền thuộc các phái võ dân gian Trung Hoa vô danh đang lưu truyền tại các địa phương nhỏ. Đây mới chính là thời kỳ “Trăm Hoa Đua Nở” của võ thuật Trung Hoa giống như thời Xuân Thu – Chiến Quốc mà lịch sử gọi là thời của “Bách Gia Chư Tử” (trăm nhà học thuật) của các trường phái triết học Trung Hoa cổ đại.
Sự phát triển võ thuật của các võ phái Trung Hoa và Thiếu Lâm vào thời nhà Minh gắn liền với phong trào đánh đuổi giặc “Thát Đát” (người Mông Cổ) và sự kiện Chu Nguyên Chương sáng lập ra nhà Minh lấy hiệu là Minh Thái Tổ.
Có một số tài liệu viết một sự kiện rằng Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã từng học võ tại chùa Thiếu Lâm như Tống Thái Tổ và đã để lại bút tích do chính ngài thủ bút tại bia đá ở cổng chùa. Nguồn tài liệu này cũng không cho biết đã dẫn từ những nguồn tài liệu nào – chính sử hay dã sử nên chưa thể xác minh lại được và ngay tại bia đá cổng chùa của Thiếu Lâm tự Tung Sơn cũng chưa hề nghe ai nhắc nhở đến sự kiện này có thật hay không.
Sự phát triển võ thuật của các võ phái Thiếu Lâm vào thời nhà Thanh gắn liền với phong trào “Phản Thanh Phục Minh” và sự ra đời của các bang hội kín (Secret Societies) như Hồng Môn lấy Hồng Quyền (Hung Kuen hay Red Fist) làm nền tảng quyền pháp mà xưng danh, tục gọi là Hồng Bang Hội (Hung Mun hay Red Association) và Thiên Địa Hội (The Heaven and Earth Society), v.v. …
Bài La Hán Quyền không phải là 10 lộ La Hán Thập Bát Thủ. Bài La Hán Quyền này được sáng tác vào thời nhà Minh – nhà Thanh khoảng cùng thời với các bài Hầu Quyền, Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền, Mai Hoa Quyền, Liên Hoa Quyền tại Thiếu Lâm Tung Sơn (Hà Nam) bởi vì các động tác quyền thuật trong các bài quyền này đã có một bước tiến đáng kể trong các động tác của thủ hình (thủ pháp) phức tạp hơn với những loại thủ hình mới như Hầu Thủ, Xà Hình Thủ Pháp, Liên Hoa Thủ, Cầm Nã Thủ là những chiêu thức thủ pháp thuộc loại Nhu Quyền (Soft Boxing) rất thịnh hành vào thời Minh – Thanh chuyên nhấn mạnh đến lực ly tâm của các đường quyền chuyển động theo hình vòng tròn dùng để hóa giải các loại Cương Quyền (Hard Boxing) thường vận động theo đường thẳng. Đây cũng chính là cơ sở để Chí Thiện Thiền sư (thuộc dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm) sáng tác ra kỹ thuật Trường Kiều với lối đánh cho tay quyền đấm theo đường vòng cung như bộ môn quyền Anh của phương Tây sau này, chỉ khác là kỹ thuật Trường Kiều yêu cầu hai cánh tay phải luôn thẳng khi xuất quyền.
Bài quyền nổi tiếng nhất thời nhà Minh của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam là bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền được phát triển cùng với bài La Hán Quyền trên cơ sở các loại thủ hình mới là Cầm Nã Thủ và Liên Hoa Thủ nhưng lại nổi tiếng hơn bài La Hán Quyền vì các bộ tấn của bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền đòi hỏi các môn đồ Thiếu Lâm khi tập luyện phải di chuyển trên trận đồ Mai Hoa Thung – Thung có nghĩa là các cọc gỗ cao 2-3 mét có đường kính từ 30-40 phân xếp thành hình hoa mai, đây là một sáng kiến mới lạ và vô cùng độc đáo của chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam và phương pháp này sau đó mau chóng khích lệ các bộ môn quyền thuật Bắc Thiếu Lâm như Hình Ý Quyền – còn gọi là Lục Hợp Quyền - của phái Thiếu Lâm Vy Đà (tục gọi là Vy Đà Môn) của dòng họ Vạn Lại thuộc vùng Hoa Bắc và Hạc Quyền của Nam Quyền Thiếu Lâm Hồng Gia của Phương Thế Ngọc, Bạch Hạc Quyền của phái Nam Thiếu Lâm Bạch Hạc phát triển trên Thiên Cương Mai Hoa Thung. Phương pháp luyện quyền trên Mai Hoa Thung Trận sau này đã nhanh chóng trở thành sở trường nghệ thuật lưu diễn cho các đoàn Lân-Sư-Rồng của các phái võ Nam Thiếu Lâm ở Quảng Đông, đó là biểu diễn Lân-Sư-Rồng trên Mai Hoa Thung Trận. Thậm chí có nhiều quyền sư Nam - Bắc Thiếu Lâm còn đề nghị bịt mắt bằng một tấm vải đen để luyện quyền trên Mai Hoa Thung.
Cũng như các bài quyền thời nhà Tống và nhà Nguyên, các bài quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam thời nhà Minh và nhà Thanh như bài La Hán Quyền và Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền kể trên chỉ di chuyển theo phương ngang bên trái và bên phải so với hướng trục chính diện của người luyện.
Công lao của Thích Kế Quang và Du Đại Du được ghi nhận cho đời sau là việc hệ thống các thế quyền căn bản của các dòng quyền thuật trong dân gian, sau đó phổ biến lại cho các nhà sư Thiếu Lâm nhiều chiêu thức tinh diệu và hữu hiệu. Các chiêu thức này vẫn còn ở các bài quyền của Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền ngày nay. Ngoài ra ông còn đưa thêm các nguyên lý của Tôn Tử binh pháp (chiến đấu tập thể) vào quyền thuật.
Có thể kể ra một số tư thế chiêu thức của hai môn quyền này xuất phát từ Thích Kế Quang như sau: Bạch hạc lượng sí, Bài cước, Bạch xà thổ tín, Bạch viên hiến quả, Bạch vân cái đỉnh, Triều thiên, Đơn tiên, Kim Kê độc lập, Hoài Trung Bão Nguyệt, Tảo Phong Cước, Ngọc Nữ Xuyên Thoa, Khóa Hổ, Tấn Bộ Ban Lan Chùy, Cao Thám Mã, ...
Các nguyên lý của Tôn Tử binh pháp được viên đại tướng này đưa vào quyền thuật như sau:
Nguyên lý "Thường sơn xà trận pháp" chép lại từ Tôn Tử binh pháp (thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch) được ông áp dụng trong quyền thuật: "chánh như Thường sơn xà trận pháp, đánh đầu thì đuôi tiếp ứng, đánh đuôi thì đầu tiếp ứng, đánh thân thì đầu và đuôi tương ứng" (chánh như Thường sơn xà trận pháp, kích đầu tắc vỹ ứng, kích vỹ tắc đầu ứng, kích kỳ thân nhi đầu vỹ tương ứng).
Chiến thuật trá bại được trình bày trong ba chương: quyền, côn và thương. Đó là ba thế "Đảo kỳ long", "Tẩu mã hồi đầu thức" và "Dương du trá hồi thương pháp". Đây là chiến thuật giả bộ thua chạy dụ địch đuổi theo để xoay người đánh một quyền hay đâm một thương, còn lưu lại trong các bài binh khí như Trung Ương Quốc Thuật Quán Tam tài kiếm, Tinh Võ Hội Ngũ hổ thương, Thất Tinh Đường Lang Yến Thanh đơn đao, Vĩnh Xuân Bạch Hạc Song long xuất thủy song đao, Trần Gia Thái Cực Thập tam can, Trần Gia Thái Cực Xuân Thu đại đao... Quyền thuật tại hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, có thế giả thua xoay lưng chạy rồi ngồi xuống đất để bất thình lình xoay người lại ném cát vào mắt địch hay nhảy lên đá vào hạ bộ đối thủ, thế có tên là "Linh miêu hí thử" (mèo đùa giởn với chuột !).
Nguyên lý "hư thật" và "kỳ chánh" xuất từ Tôn Tử binh pháp được áp dụng trong quyền thuật. Hư thật và kỳ chánh chỉ sự dối trá để lừa địch, đòn đầu là hư và đòn sau là thật. Nhưng hai đòn đầu cũng có thể là hư chỉ đòn thứ ba và thứ tư mới là thật, đây là "Hư hư thật thật" hay "Kỳ kỳ chánh chánh". Địch không biết lúc nào là hư lúc nào là thật !
Khái niệm "tiểu môn" và "đại môn" là nền tảng của võ thuật Trung Quốc. Muốn tấn công địch như muốn vào nhà, muốn vào nhà thì ta phải mở cửa, nhà xưa đều có hai cửa: cửa trước và cửa sau. Đại môn là khoảng cách giữa hai tay, là cửa trước, tiểu môn là hông hay lưng địch, là cửa sau. Đường đi vào đại môn ngắn hơn nhưng nguy hiểm hơn vì địch có thể phản công dễ dàng. Ta tấn công vào đại môn khi ta ra đòn trước, khi thế lực ta mạnh hơn. Khi đòn địch không nằm trên trung tâm tuyến thì ta tiến vào cửa chánh vừa đỡ vừa tấn công.
Thường ta chờ địch tấn công để kéo tay địch qua một bên buộc địch mở tiểu môn để ta xâm nhập, như Thích Kế Quang giải thích trong thế "Phao giá tử". Đây là nguyên lý rất quan trọng trong võ thuật Trung Hoa. Bát Quái Chưởng vừa niêm kéo tay địch qua một bên vừa chạy qua bên kia để đánh vô lưng địch. Vịnh Xuân né mình qua bên và hất tay đối thủ để tấn công vào bên hông. Bắc Phái Đường Lang Quyền tiến vào trung môn kéo tay địch qua bên để tấn công.
Khi ta nghiên cứu qua 32 thế quyền của đại tướng, ta có thể thấy vài chiến lược khác như "Thanh đông kích tây" (Làm tiếng động hướng đông nhưng đánh hướng tây) và "Thượng kinh hạ thủ" (Làm địch sợ hãi ở trên để tấn công ở dưới).
Và nguyên lý quan trọng khác là "tiệt đả", hiện nay là căn bản của võ thuật Trung Quốc: vừa tiếp đón đòn địch lúc chưa phát triển trên đường chính diện (trung tâm tuyến), vừa phản công.
Về Đầu Trang Go down
toanlkau
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
toanlkau

Tổng số bài gửi : 150
Reputation : 0
14/01/1992
Join date : 21/04/2011
Age : 32
Đến từ : 12a7(2007-2010)
MD1coin : 178

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 7:22 pm

ái chà nhiều tuyệt học quá nhỉ,thiếu lâm là thái sơn bắt đẩu của võ học mà,ông nội Khưu Ma Trí nhờ học lỏm được 72 chiêu nên cũng pro kinh,nói đến giáng long thập bát chưởng thì nó xuyên suốt qua mấy bộ truyện của kd,không chỉ "kháng long hữu hối" thôi đâu chiêu "phi long tại thiên" chính QTĩnh đã sử dụng để cứu HDung thoát khỏi đám cái bang và cũng chính nhà sư quét lá ở thiếu lâm đã nói gltbc là đệ nhất khi Tiêu Phong sử dụng nó thế mới thấy nó ghê gớm như thế nào,hihihi bàn luân võ học quá quên giới thiệu mình là Toàn a7
Về Đầu Trang Go down
duongvidic.
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
duongvidic.

Tổng số bài gửi : 709
Reputation : 3
01/11/1992
Join date : 15/04/2011
Age : 31
Đến từ : 12A5(2007-2010
MD1coin : 896

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 8:54 pm

chà bác Toàn hả, Dương hồi học Nguyễn Trãi nè ba, đang học trường nào vậy
Về Đầu Trang Go down
duongvidic.
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ
duongvidic.

Tổng số bài gửi : 709
Reputation : 3
01/11/1992
Join date : 15/04/2011
Age : 31
Đến từ : 12A5(2007-2010
MD1coin : 896

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitimeTue Apr 26, 2011 8:54 pm

chà bác Toàn hả, Dương hồi học Nguyễn Trãi nè ba, đang học trường nào vậy
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc _
Bài gửiTiêu đề: Re: Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc   Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 

Các Bang phái nổi tiếng của Trung Quốc

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Trường THPT Số 1 Mộ Đức :: CUỘC SỐNG QUANH TA  :: Kiến thức tổng hợp-
Chuyển đến 
Múi giờ GMT +7.
Powered by Forumotion® Version phpBB2
Copyright ©2009 - 2010, Skin by SLOL, SKIN4U & DDTH
Diễn đàn trường THPT số 1 Mộ Đức - Huyện Mộ Đức - Tỉnh Quảng Ngãi. Điện thoại: 055.3857256 .
MoDuc1.com là diễn đàn mở, nội dung do các thành viên đưa lên.Truy cập, sử dụng website này nghĩa là bạn đã chấp nhận Quy định của diễn đàn.

Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất